• Các bài thuốc từ cây gạo
Nếu có vết thương chảy máu
và băng huyết, dùng hoa gạo
lượng vừa đủ, đốt thành
than uống. Còn để chữa đau
răng, có thể dùng vỏ thân
cây gạo 20 g sắc đặc, ngậm
nhiều lần trong ngày.
Cây gạo còn được gọi là mộc
miên, cổ bối, ban chi hoa,anh
hùng thụ... Tên khoa học là
Gossampinus malabarica (DC).
Merr. Kết quả nghiên cứuthực
nghiệm cho thấy, nước sắc hoa
gạo có tác dụng ức chế trực
khuẩn lỵ mạnh.
Theo dược học cổ truyền,vỏ cây
gạo vị cay, tính bình, có công
dụng thanh nhiệt, hoạt huyết,
tiêu thũng, thường được dùng
để chữa các chứng bệnh như
viêm loét dạ dày, đi lỏng, kiết lỵ,
đau khớp cổ chân và khớp gối,
viêm loét ngoài da, chấn thương
do trật đả...
Hoa gạo vị ngọt, tính mát,có
công dụng thanh nhiệt, giải độc,
chỉ huyết, thường dùng để trị đi
lỏng, kiết lỵ, băng huyết, viêm
loét, nhọt độc, xuất huyếtdo
chấn thương...
Rễ gạo vị ngọt, tính mát, có tác
dụng thanh nhiệt, cầm máu, se
vết thương, thường đượcdùng
để chữa viêm loét dạ dày,kiết lỵ
phân có máu, lao hạch, sưng vú
sau khi sinh con, tổn thương do
trật đả.
Một số bài thuốc:
- Viêm khí phế quản cấp tính: Rễ
gạo 30 g sắc uống.
- Ho khạc nhiều đờm do phế
nhiệt: Hoa gạo 15 g, ngư tinh
thảo (rau diếp cá) 15 g, tang
bạch bì 10 g, sắc uống.
- Nôn ra máu: Hoa gạo 14bông,
thịt lợn nạc 100 g. Hoa gạo rửa
sạch, thái nhỏ; thịt lợn thái
miếng. Hai thứ nấu canh ăn.
- Ho ra máu: Hoa gạo 14 bông
sắc kỹ, chế thêm một chút
đường phèn, chia uống vài lần
trong ngày.
- Viêm loét dạ dày: Rễ, hoa hoặc
vỏ thân cây gạo 15-30 g,sắc
uống. Hoặc: Rễ, hoa hoặc vỏ
thân cây gạo 30 g, rễ câylưỡng
diện châm (Zanthoxylum
nitidum) 6 g, sắc uống.
- Lỵ trực khuẩn, viêm ruột và dạ
dày cấp tính, đi lỏng, đại tiện ra
máu: Hoa gạo 60 g, sắc kỹ, chế
thêm một chút mật ong hoặc
đường phèn, chia uống vài lần
trong ngày. Hoặc: Hoa gạo 15 g,
kim ngân hoa 15 g, phượng vĩ
thảo (cỏ seo gà) 15 g, sắcuống.
Hoặc: Hoa gạo 15-30 g sắc kỹ,
chia uống 3 lần trong ngày.
- Sưng đau vú sau khi sinh con:
Hạt cây gạo 10 g, sao vàng sắc
uống.
- Trẻ em sốt cao vào mùahè:
Hoa gạo 6 g, sắc kỹ, chế thêm
chút đường phèn, chia uống vài
lần trong ngày.
- Viêm khớp mạn tính, đau lưng
và đau gối mạn tính: Rễ gạo
30-60 g, sắc hoặc ngâm rượu
uống. Hoặc: Vỏ thân cây gạo 15
g, sắc kỹ, bỏ bã, chế thêmmột
chút rượu vang, chia uống 2 lần
trong ngày.
- Tiểu tiện không thông: Chất
gôm cây gạo 10 g, kim ngân dây
20 g, hạ khô thảo 20 g, sắc với
750 ml nước, cô còn 300 ml, chia
uống 3 lần trong ngày.
- Sưng nề do chấn thương: Vỏ
thân hoặc rễ cây gạo ngâm rượu
xoa ngoài hoặc giã nát đắp vào
vị trí tổn thương. Hoặc: Vỏ thân
cây gạo 100 g, củ nghệ vàng già
100 g. Vỏ gạo cạo bỏ vỏ bẩn ở
ngoài, băm nhỏ, giã nát với nghệ
thái mỏng, dùng dấm thanh và
rượu cho vào sao rồi chườm
hoặc đắp vào vết thương khi
còn nóng.
- Ngứa vùng hậu môn sinh dục:
Vỏ thân cây gạo sắc lấy nước
ngâm rửa nơi bị bệnh.
- Trĩ xuất huyết: Hoa gạo 20 g,
quyển bá 10 g, hòe hoa 15 g, sắc
uống.
- Bong gân: Vỏ cây gạo 16 g
(cạo bỏ vỏ ngoài, sao rượu), lá
lốt 16 g (sao vàng), sắc với 750
ml nước, cô còn 250 ml, chia
uống 2 lần trong ngày. Hoặc:
Rau má tươi, vỏ thân cây gạo
tươi, vòi voi tươi và bồ công
anh tươi, bốn thứ lượng bằng
nhau, rửa sạch, giã nát, bó vào
nơi bị bệnh.
- Gãy xương: Sau khi nắn chỉnh
ổ gãy, dùng vỏ rễ cây gạo tươi
rửa sạch, giã nát, bó vào vị trí
gãy xương, 2 ngày thay 1lần.
ThS Hoàng Khánh Toàn